TẮC MẠCH ỐI
Quyết định số: 315/QĐ-BYT
Ngày ban hành: 21/09/2015 12:00
Đại cương
- Tắc mạch ối là một biến chứng sản khoa rất nguy hiểm, tỷ lệ tử vong cao, không thể đoán trƣớc và không thể dự phòng đƣợc.
- Tắc mạch ối là do nƣớc ối, tế bào của thai nhi, chất gây, tóc, lông tơ hoặc các mảnh mô khác lọt vào tuần hoàn của ngƣời mẹ, gây ra suy hô hấp và suy tuần hoàn cấp tính.
- Yếu tố nguy cơ:
+ Sản phụ trên 35 tuổi, con rạ nguy cơ cao hơn con so.
+ Mổ lấy thai, đẻ có can thiệp thủ thuật Forcep, giác hút, chọc ối.
+ Đa ối, đa thai, rau tiền đạo, rau bong non, sản giật....
+Tổn thƣơng tử cung hoặc cổ tử cung.
- Thời điểm tắc mạch ối: rất khác nhau 12% số trƣờng hợp xảy ra tắc mạch ối khi màng ối còn nguyên, 70% xảy ra trong chuyển dạ, 11% xảy ra sau đẻ qua đƣờng âm đạo. 19% xảy ra trong mổ lấy thai khi đã có chuyển dạ hay khi chƣa có chuyển dạ.
Chẩn đoán
2.1. Hình ảnh lâm sàng đặc trƣng:
Xuất hiện đột ngột với các dấu hiệu theo trình tự thời gian. Khởi đầu là suy hô hấp, tím tái xảy ra đột ngột trong vài phút và tiếp đến là tụt huyết áp, phù phổi, choáng, biểu hiện thần kinh nhƣ: lú lẫn, mất ý thức và co giật. Trên 80% số trƣờng hợp ngƣời bệnh có biểu hiện ngừng tim, ngừng thở trong vài phút đầu tiên. Có đến 50% số trƣờng hợp tử vong ngay trong giờ đầu xuất hiện triệu chứng.
Nếu ngƣời bệnh thoát qua đƣợc giai đoạn này (khoảng 40% số trƣờng hợp) sẽ có biểu hiện chảy máu dữ dội nhiều nơi do đờ tử cung (nếu sau đẻ) và do đông máu rải rác trong lòng mạch. Chảy máu từ tử cung không thể cầm đƣợc. Số trƣờng hợp có biểu hiện phù phổi ở giai đoạn này cũng cao.
2.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán:
Hội sản phụ khoa Hoa Kỳ và Anh khuyến cáo 4 tiêu chuẩn chẩn đoán tắc mạch ối nhƣ sau (phải đồng thời có đủ cả 4 tiêu chuẩn): tụt huyết áp hay ngừng tim. Thiếu ô xy cấp tính. Bệnh lý đông máu hay chảy máu nặng mà không có các lý giải khác. Tất cả xảy ra trong chuyển dạ, mổ lấy thai hay trong vòng 30 phút sau đẻ mà không có các lý giải khác cho các dấu hiệu này.
2.3. Cận lâm sàng: xét nghiệm khí trong máu; công thức máu; đông máu. X quang phổi: thƣờng không thấy dấu hiệu đặc hiệu, có thể có dấu hiệu phù phổi. Điện tâm đồ: có thể thấy nhịp tim nhanh, phần ST và sóng T thay đổi.
2.4. Chẩn đoán phân biệt: chẩn đoán phân biệt với rất nhiều hội chứng khác: tắc mạch do huyết khối, tắc mạch do khí, choáng nhiễm khuẩn, nhồi máu cơ tim cấp tính, choáng phản vệ do các nguyên nhân khác nhau, rau bong non hay phản ứng của gây tê vùng.
2.5. Chẩn đoán xác định: dựa vào kết quả mổ tử thi tìm thấy tế bào của thai và thành phần nƣớc ối trong động mạch phổi mẹ.
Điều trị
- Duy trì cung cấp oxy cho sản phụ (đặt nội khí quản, thở máy).
- Đặt hơn 2 đƣờng truyền tĩnh mạch, nâng huyết áp bằng dung dịch cao phân tử.
- Hồi sức tim nếu ngừng tim: Adrénaline tiêm tĩnh mạch 1 mg, hoặc qua đƣờng nội khí quản 3 mg, hoặc Xylocaine 1 mg/kg tiêm tĩnh mạch chậm (trong 2 phút). Có thể tiêm nhắc lại sau mỗi 3 – 5 phút. Tuy nhiên, liều tổng cộng của xylocaine không đƣợc quá 3 mg/kg.
- Làm các xét nghiệm cấp cứu: khí trong máu, công thức máu, đông máu
- Theo dõi bằng monitor.
- Truyền máu và các chế phẩm của máu nếu kết quả đông máu không tốt kèm chảy máu dữ dội: truyền máu toàn phần hay khối hồng cầu và huyết tƣơng,…
Tuy nhiên trên đây chỉ là những xử trí triệu chứng nhằm hồi phục dấu hiệu sinh tồn của ngƣời bệnh, không xử lý đƣợc căn nguyên.Vì tai biến này hay xảy ra đột ngột và tiến triển nhanh nên hầu hết ngƣời bệnh đều tử vong. Nếu thai chƣa xổ
thì hầu hết thai nhi không đƣợc cứu kịp, ngƣời ta có thể mổ ngay để cứu thai nhƣng
tính may rủi cũng rất lớn.
4. HẬU QUẢ VÀ BIẾN CHỨNG:
4.1. Tử vong mẹ, con.
4.2. Hậu quả về tinh thần và vận động cho mẹ và con do thiếu oxy não.
4.3. Hội chứng Sheehan: chảy máu nặng có thể dẫn tới hoại tử một phần hoặc toàn bộ thùy trƣớc tuyến yên gây suy tuyến yên, biểu hiện bằng dấu hiệu vô kinh, rụng lông, rụng tóc, suy tuyến giáp, suy tuyến thƣợng thận, mất sữa.
4.4. Biến chứng khác: sự mất máu nhiều gây ảnh hƣởng tới sức khỏe và tinh thần của sản phụ, có thể gây suy gan, suy thận, suy đa tạng, rối loạn đông máu và dễ nhiễm khuẩn hậu sản. Bên cạnh đó việc truyền máu điều trị chảy máu sau đẻ làm tăng các nguy cơ và biến chứng của truyền máu.
5. PHÕNG BỆNH
Không dự phòng đƣợc do ngƣời ta vẫn không hiểu tại sao nƣớc ối vào tuần hoàn chỉ xảy ra ở một số ít ngƣời mà không xảy ra ở nhiều ngƣời khác cũng nhƣ không biết vai trò của mức độ, số lƣợng mảnh mô thai, loại mảnh mô thai (có chứa kèm theo phân su hay không) hay một số yếu tố nào đó của ngƣời mẹ nên tắc mạch ối chỉ ở một tỷ lệ rất nhỏ phụ nữ.